Sau khi ly hôn, mẹ tôi trở thành người phụ nữ dữ dằn nhất làng.

Bà thường xuyên mắng tôi:

“Nếu không phải vướng mày, tao đã sớm lấy được một người chồng giàu rồi!”

Dân làng thì xì xào sau lưng:

“Không tái hôn được nên lôi con gái ra làm bia đỡ đạn.”

Bố tôi còn chế giễu:

“Với cái tính như pháo nổ của mẹ mày, lại còn không sinh được con trai, chỉ có mấy gã có bốn đứa con trai mà chẳng ai thèm cưới mới rước bà ta về thôi!”

Nhưng sau này, thực sự có một ông chủ nhỏ muốn cưới mẹ.

Bố tôi lại đổi giọng, hối hận:

“Ngọc Phân, mình tái hôn đi, sống lại như một gia đình nhé!”

1

Năm tôi bảy tuổi, bố cặp với một người phụ nữ thành phố.

Mẹ phát hiện ra và đòi ly hôn.

Hai bên gia đình ngồi lại thương lượng.

Bà nội mừng rơn, suýt nữa gõ chiêng ăn mừng:

“Cũng biết thân biết phận đấy! Bao nhiêu năm rồi mà không đẻ nổi một thằng con trai, sớm muộn gì cũng phải cút khỏi nhà tao thôi.”

“Nhưng con Bé Bối thì mày không được mang đi!”

Bố tôi sốt sắng:

“Giữ nó lại làm gì? Tiểu Phương không có ý định trông con hộ đâu!”

(Tiểu Phương chính là người đàn bà thành phố đó.)

Bà nội liếc ông một cái:

“Mày biết cái quái gì? Nuôi một đứa con gái tốn bao nhiêu tiền chứ? Đến lúc nó học xong cấp hai thì có thể đi làm kiếm tiền, đến tuổi lấy chồng còn có sính lễ mang về, chẳng lỗ vốn đâu!”

Mợ tôi thì nhỏ giọng khuyên mẹ:

“Không mang con theo cũng tốt, em sẽ dễ dàng tái hôn hơn. Em còn chưa đến ba mươi, sợ gì không lấy được người tốt?”

Mẹ tôi lạnh lùng đáp:

“Tại sao con do tôi sinh mà cuối cùng lại để nhà họ hưởng sính lễ?”

“Chuyện có lợi như vậy, tôi không thể tự hưởng sao?”

“Nếu mấy người không để Bé Bối đi với tôi, thì đừng mong tôi ký giấy ly hôn! Xem ai lì hơn ai!”

Hồi đó, ở quê, ly hôn thường là tự thỏa thuận.

Mặc định con cái sẽ thuộc về nhà nội.

Trừ khi đàn ông chịu buông tay, còn không thì phụ nữ không thể mang con đi.

Tôi giống như một món đồ bị kéo qua kéo lại.

Cuối cùng, bố tôi vì muốn nhanh chóng lên thành phố, đành nhượng bộ.

Tôi rón rén tiến lại gần mẹ, nhỏ giọng gọi:

“Mẹ…”

Bà trợn mắt nhìn tôi:

“Gọi hồn à?”

“Dắt theo cái của nợ như mày, tao đừng mong lấy được ai ra hồn nữa!”

Điều kiện của bố là không phải trả tiền nuôi dưỡng.

Nhưng cậu và mợ đã tranh đấu giúp mẹ con tôi giữ lại được căn nhà cũ.

Đó là một căn nhà đất vàng, mái tranh, cứ mưa là dột khắp nơi.

Dãy nhà phía tây thì sập một nửa, nhiều năm rồi không ai ở.

Bà nội cười nhạo:

“Là tao với ông Thanh rộng lượng mới để lại căn nhà này cho mày đấy! Nhìn mấy bà vợ bị bỏ khác trong làng mà xem, ai cũng ra đi tay trắng!”

“Phải biết ơn đại ân đại đức của bọn tao!”

Tối hôm đó, bà dọn sạch đồ đạc của hai mẹ con tôi rồi quẳng ra ngoài.

Trời mưa, đường làng lầy lội bùn đất.

Cánh cửa nhà cũ vừa đẩy ra, hơi ẩm mốc cùng mùi hôi xộc thẳng vào mặt.

Một đàn chim hoang dã bay vọt lên, sượt qua mặt tôi, khiến tôi giật mình hét toáng lên.

Tôi níu chặt vạt áo cậu, giọng run rẩy hỏi:

“Cậu ơi… con với mẹ có thể đến nhà cậu ở không?”

2

Nhà của cậu và mợ hiện tại là do ông ngoại xây khi còn sống.

Hồi đó, mẹ tôi còn góp tiền riêng để giúp đỡ.

Ngôi nhà hai tầng, có tổng cộng bốn phòng ngủ.

Tôi vẫn nhớ khi còn nhỏ, ông ngoại từng bế tôi, chỉ vào căn phòng phía đông tầng hai và nói:

“Bé Bối, sau này con sẽ ở căn phòng đó.”

Cho đến tận nửa năm trước, khi ông ngoại qua đời, mỗi lần tôi và mẹ về nhà, chúng tôi vẫn ngủ trong căn phòng đó.

Cậu tôi còn chưa kịp lên tiếng, thì mợ đã vội vàng nói trước:

“Em họ con mấy ngày trước cứ nằng nặc đòi ngủ một mình, nên mợ cho nó ở phòng phía đông rồi.”

“Không sao, để mợ bảo nó chịu khó chen chúc với chị hai nó mấy hôm.”

Lúc đó tôi còn nhỏ, chưa hiểu hết ẩn ý trong lời người lớn.

Tôi chỉ nhìn mẹ đầy hy vọng, chỉ mong có thể thoát khỏi căn nhà cũ đáng sợ này, dù chỉ vài ngày cũng được.

Nhưng sắc mặt mẹ đã thay đổi.

Mắt bà ánh lên một tầng nước mỏng, rồi đẩy mạnh tôi một cái:

“Còn kén chọn à? Mày tưởng tao muốn dắt theo cái của nợ như mày chắc?”

“Không muốn theo tao thì cút về với bố mày đi!”

Bà dùng sức rất mạnh, tôi mất thăng bằng, trượt chân xuống vũng nước đọng dưới mái hiên.

Trời đông rét mướt, nước lạnh lẽo ngấm vào quần áo.

Lạnh đến tận chân, lạnh cả vào tim.

Tôi không hiểu mình đã làm sai điều gì mà hết lần này đến lần khác bị ghét bỏ.

Nghẹn ngào, tôi quay đầu bỏ chạy.

Cậu mợ gọi tôi lại, nhưng mẹ lạnh lùng nói:

“Mặc kệ nó!”

Tôi ngoái đầu nhìn.

Hệ thống điện trong nhà đã cũ, chỉ có chút ánh sáng yếu ớt từ cửa sổ nhà hàng xóm hắt qua, chiếu vào khoảng sân nhỏ trước cửa.

Bóng tối chập chờn, mẹ đứng quay lưng về phía cậu mợ, tấm lưng thẳng tắp khẽ run lên như không thể kiểm soát.

Tôi chợt thấy tủi thân biến mất.

Tôi chạy lại ôm lấy cánh tay mẹ, nghẹn ngào:

“Mẹ ơi, con ở lại với mẹ, mẹ đừng khóc nữa.”

Mẹ giơ tay vỗ mạnh vào đầu tôi:

“Câm miệng! Ai khóc hả?”

“Mẹ ly hôn cái loại đàn ông khốn nạn đó vui muốn chết, ai mà khóc chứ!”

Cậu tôi giúp sửa lại hệ thống điện.

Căn nhà cũ nát cuối cùng cũng có ánh sáng.

Dưới ánh đèn lờ mờ, tôi thấy những nếp nhăn nơi khóe mắt cậu.

Ông hạ giọng nói:

“Ngọc Phân, tính em dâu chị là vậy.”

“Chị cứ ở đây tạm thời, để em nói chuyện với cô ấy, rồi hai mẹ con chị qua phòng em ở.”

3

Mẹ quay lưng lại với cậu, lặng lẽ trải ga giường, nhàn nhạt đáp:

“Không cần phiền đâu, chị ở đây cũng tốt mà.”

Lúc đó tôi có chút giận mẹ vì từ chối.

Mãi sau này tôi mới hiểu.

Cậu không phải người quyết định trong nhà, lời đề nghị của cậu chẳng khác nào câu “Hôm nào rảnh mời ăn cơm”.

Nói thì nói vậy, nhưng không thể coi là thật.

Sau ly hôn, bố tôi vội vã lên thành phố với người đàn bà kia.

Còn mẹ con tôi mất hơn mười ngày để dọn dẹp lại căn nhà cũ.

Cậu tôi kiếm về ít gạch vụn, tạm thời vá lại phần tường bị sập của gian nhà phía tây.

Mái nhà được lợp lại bằng rơm mới, buổi trưa nắng chiếu vào tỏa ra mùi thơm đặc trưng của lúa.

Dọn dẹp xong, cậu không ở lại ăn cơm, chỉ đạp chiếc xe đạp cà tàng leng keng rồi đi thẳng.

Bà nội đứng ở cổng làng, tay cầm hạt dưa cắn lách tách, giọng vang như chiêng đồng:

“Trên đời này kiếm đâu ra người tốt như con trai tao nữa chứ?”

“Con đàn bà đó ngay cả một thằng con trai cũng không sinh được, vậy mà vẫn được cho nhà ở!”

“Nhìn mà xem, ngay cả nhà mẹ đẻ cũng không muốn chứa chấp nó!”

Bà Triệu hàng xóm nghe không lọt tai, bèn đáp:

“Nếu con trai bà tốt thật thì đã không suốt ngày lăng nhăng bên ngoài rồi!”

“Tôi thấy con bé Ngọc Phân cũng là người đoan chính đấy chứ!”

“Hơn nữa, Bé Bối là con gái nhà họ Vương, có nhà ở cũng là chuyện đương nhiên!”

Bà nội trợn mắt lườm một cái:

“Chẳng qua là con trai tao có bản lĩnh mới cưới được vợ thành phố!”

“Nhìn cái mặt xui xẻo của con Ngọc Phân đi, nó muốn quyến rũ ai cũng chẳng ai thèm!”

Lần này, bà nội đã đoán sai rồi.

Tối hôm đó, hơn chín giờ, lão già độc thân trong làng – Lưu Què – đến gõ cửa nhà tôi.

Hắn nhét một tờ năm mươi tệ qua khe cửa, hạ giọng nói:

“Ngọc Phân, cầm lấy tiền mà mua bộ quần áo mới đi.”

“Thằng Thanh (bố tôi) không biết thương em, nhưng anh thì biết.”

“Mùa đông lạnh lắm đúng không? Đừng ngủ một mình nữa, mở cửa đi, anh vào sưởi ấm cho em.”

4

Mẹ tôi không lên tiếng.

Hắn cứ đứng đó gọi mãi, giọng càng lúc càng lớn.

Mẹ xuống giường, tìm một cây gậy tre chặn cửa lại, rồi lạnh giọng quát:

“Cút! Tôi không phải loại đàn bà như vậy!”

Nhưng suốt mấy ngày sau, Lưu Què vẫn tìm đủ cách đến quấy rầy.

Mặc dù mẹ đã cứng rắn từ chối, nhưng ánh mắt của nhiều người trong làng khi nhìn mẹ bắt đầu trở nên mờ ám.

Hồi đó, tư tưởng ở quê chính là như vậy.

Dù bạn là nạn nhân, thì người ta vẫn sẽ nói: “Ruồi bâu thì cũng phải có trứng nứt trước đã.”

Hôm đó là tiệc mừng thọ 60 tuổi của ông Ngũ.

Mẹ được mời đến giúp bưng trà rót nước, tôi thì theo mẹ đi ăn cỗ.

Hồi ấy nhà nào cũng nghèo, trẻ con mong ngóng nhất là những bữa cỗ để được ăn ngon.

Vừa thấy dưa hạt dưa và đậu phộng bày lên bàn, lũ trẻ lập tức xông vào tranh giành.

Tôi còn nhỏ, tay chân không nhanh nhẹn, chỉ lấy được một nhúm lạc nhỏ.

Đang tủi thân thì Lưu Què bê cả đĩa lạc đầy từ bàn hắn đến đặt trước mặt tôi:

“Này, ăn đi, cho hết đấy!”

Không khí lập tức thay đổi.

Mấy bà trong làng liếc nhau cười cợt:

“Bé Bối, lão Lưu xem cháu như con gái ruột đấy!”

Tôi lập tức hất đĩa lạc ra xa:

“Ai thèm làm con gái ông? Tôi có bố, mẹ tôi cũng không thích ông!”

Lưu Què cười hề hề:

“Con nít thì biết cái gì? Tao tối nào cũng đến thăm mẹ mày đấy!”

Mấy gã đàn ông ngồi cùng bàn với hắn, bao gồm cả bác Ba của chủ nhà, đều phá lên cười.

“Lưu Què, mày ra tay nhanh đấy!”

“Không ngờ mày cũng có bản lĩnh gớm!”

“Gái mới ly hôn còn nóng hổi, mày mò đến mỗi đêm, không sợ mềm cả chân à?”

“Nào nào, Bé Bối, gọi lão Lưu một tiếng ‘bố’ đi, để ông ấy cho mày mười tệ tiền tiêu vặt!”

Dân làng rất thích lấy chuyện trai gái ra làm trò cười.

Tôi tức đến đỏ cả mắt, chỉ biết lặp đi lặp lại:

“Mẹ tôi không thèm ông! Mẹ tôi không thích ông!”

Lúc đó, mẹ tôi đang ở trong bếp bưng trà nước ra.

Thấy cảnh tượng này, mẹ vội vàng chạy đến, nhưng vì quá hấp tấp mà trật chân.

Tiếng cười của đám đàn ông càng lớn hơn.

Họ hò hét:

“Lưu Què, còn không mau đỡ vợ mày đi?”

5

Lưu Què lợi dụng hơi men, vươn tay sờ soạng kéo mẹ tôi lại.

“Ngọc Phân, em chạy gì chứ? Té đau thì anh xót lắm đấy!”

Mọi ánh mắt trong bữa tiệc đều dồn lên người mẹ.

Có kẻ còn cợt nhả:

“Chừng nào mới được uống rượu mừng của hai người đây?”

Bà nội tôi nghiến răng nghiến lợi, giọng the thé:

“Con đàn bà mất nết! Bảo sao nó đòi ly hôn, hóa ra sớm đã lăng nhăng với đàn ông khác rồi!”

Mặt mẹ đỏ bừng vì tức giận.

Bà giật lấy ly nước ngọt trong tay bà Triệu, hất thẳng vào mặt Lưu Què.

Những bọt ga li ti bắn tung tóe trên mặt hắn.

Hắn thè lưỡi liếm môi, lại nhếch miệng cười đùa:

“Sau này thành vợ chồng, em không được hung dữ với anh thế này nữa đâu nhé!”

Mẹ tôi siết chặt nắm tay.

Bà lao ra ngoài bếp, vớ lấy con dao thái thịt của đầu bếp, chĩa thẳng vào mặt Lưu Què.

“Suốt ngày chỉ nghĩ đến cái thứ giữa hai chân mày thôi à?”

“Ông soi gương lại xem mình đi, bụng thì như cái thùng, răng thì đen như than, lùn tịt như củ khoai, đi đường còn cà nhắc bên cao bên thấp. Tôi có mù cũng không thèm để mắt đến ông!”

Mẹ vung con dao chặt rau, xoay qua xoay lại nghe vù vù:

“Một ngón tay của bà đây mà ông còn chưa đụng được! Nếu còn dám bịa đặt nữa, tôi chặt cái thứ đó của ông băm nhỏ rồi quăng cho chó ăn!”

Lưỡi dao lướt qua tai, Lưu Què sợ đến mức chui thẳng xuống gầm bàn.

Mọi người vội vàng xông tới can ngăn.

Mẹ siết chặt dao, quét ánh mắt lạnh lùng qua đám đàn ông vừa trêu đùa lúc nãy:

“Một lũ đàn ông như chó, ai cũng không lọt nổi mắt tôi!”

“Nếu còn dám ăn nói bậy bạ, tôi cắt sạch ‘của quý’ của các ông rồi vứt cho chó luôn!”

Tôi sững sờ đứng đó.

Tôi biết mẹ nóng tính, nhưng bà rất sĩ diện.

Ngay cả khi biết bố ngoại tình với đàn bà thành phố rồi đòi ly hôn, bà cũng không nổi cơn điên như thế này.

Dao bếp bị đầu bếp giật mất, mẹ nắm lấy tai tôi, kéo mạnh:

“Đi! Người ta ức hiếp đến tận mặt rồi, còn ở đó ăn uống gì nữa!”

“Bữa tiệc này khỏi cần ăn!”

Tôi bị lôi xềnh xệch đi, chỉ kịp với tay tóm lấy hai miếng thịt kho tàu vừa bưng lên bàn, nhét vội vào miệng.

Nóng bỏng đến tê lưỡi, nhưng tôi không nỡ nhả ra.

Mẹ vội ly hôn, chia tài sản cũng chẳng được gì.

Mùa đông rau xanh ít ỏi, tôi đã nhiều ngày chỉ ăn cơm trắng trộn dưa muối mợ mang sang.

Trên đường về, mẹ không ngừng trách móc tôi:

“Mày là ma đói chuyển kiếp à?”

“Mồm có để ăn thôi sao? Người ta nói vậy mà mày không biết cãi lại à?”

Thấy tôi im lặng, bà tức lên, véo mạnh vào môi tôi.

Tôi hét lên vì đau.

Miếng thịt trong miệng rơi xuống đất bùn.

6

Lưỡi tôi vẫn còn tê rát, mà miếng thịt thì chẳng còn để ăn nữa.

Khoảnh khắc đó, nỗi ấm ức dâng trào.

Tôi òa lên khóc nức nở.

Mẹ giơ tay lên định đánh:

“Khóc cái gì mà khóc! Mày còn mặt mũi để khóc sao?”

“Nếu không có mày, tao đã chẳng phải ở lại nơi này!”

Tôi nhắm tịt mắt, chờ đợi cái bạt tai giáng xuống.

Nhưng đợi mãi không thấy.

Tôi hé mắt ra, thấy tay mẹ vẫn giơ lên, nhưng trong khóe mắt đã ngấn nước.

Chạm phải ánh mắt tôi, bà lập tức quay đi, lau nhanh nước mắt.

Sau đó, bà đưa tay vuốt lại mái tóc bù xù, buộc gọn lên lần nữa.

Giọng bà trầm xuống, có vẻ bình tĩnh hơn:

“Sau này cuộc sống còn khổ hơn nữa.”

“Khóc thì có ích gì? Giữ sức đi.”

Tối hôm đó, bà Ngũ và mợ Ba đến nhà.

Họ thay mặt bác Ba xin lỗi mẹ tôi, tiện thể mang theo hai bát đồ ăn thừa.

Một bát thịt kho tàu, một bát măng xào.

Ở quê, thức ăn thừa từ tiệc cưới, tiệc mừng thường là đồ ngon.

Những món “cứng” như thịt kho tàu, chủ nhà thường giữ lại để ăn dần, ít khi cho ai.

Bát thịt kho tàu ấy có tổng cộng mười bảy miếng.

Mẹ tôi hầm cùng dưa cải khô.

Bà nói không thích ăn mỡ, chỉ ăn hai miếng.

Phần còn lại, bà hâm nóng từng miếng cho tôi ăn trong năm ngày.

Ngày cuối cùng, chỉ còn chút dưa cải khô.

Mẹ chan nước nóng vào, trộn với cơm, ăn qua loa một bữa.

Từ sau bữa tiệc đó, tính cách mẹ thay đổi hẳn.

Bà chẳng ngại cãi tay đôi với đám đàn ông trong làng nữa.

Nhiều người trong làng bàn tán sau lưng:

“Ngọc Phân sau ly hôn tính còn cứng hơn trâu, thế này thì lấy ai?”

Rất nhanh, tháng Chạp đến, cả làng bắt đầu làm thịt xông khói, cá ướp muối để đón Tết.

Nhà tôi nghèo, mẹ chỉ mua được năm cân thịt và một con cá mè để muối.

Khi mẹ mang thịt ra phơi, bà nội lại châm chọc:

“Miệng thì cứng, đòi ly hôn cho bằng được, giờ đến thịt Tết cũng chẳng mua nổi.”

“Giờ thì biết rồi chứ? Ngoài con trai tôi, có gã đàn ông nào chịu bỏ tiền vì cô không?”

Lời vừa dứt, một bóng người cao lớn từ làng bên vội vã bước tới.

“Có chứ!”

Người đàn ông da đen nhẻm, gương mặt đỏ bừng vì lạnh, đưa cho mẹ tôi hai miếng thịt xông khói đã sấy kỹ.

“Ngọc Phân, cái này cho cô.”

Bà mối chạy theo sau, cười tươi như hoa:

“Ngọc Phân xinh đẹp, lại trẻ trung, ai mà chẳng muốn cưới! Vừa hun xong thịt, Đại Tráng đã kéo tôi qua đây ngay, còn chẳng buồn chọn ngày!”

Mặt Đại Tráng càng đỏ hơn.

Anh ta cao to, khỏe mạnh, tính tình lại hiền lành, làm việc chăm chỉ.

Nhà có hai tầng, cũng thuộc dạng khá giả trong vùng.

Năm ngoái, vợ anh ta qua đời vì tai nạn, từ đó người mai mối tìm đến nườm nượp.

Ở quê, anh ta là một “món hời” mà ai cũng muốn gả con gái cho.

Bà nội tôi tức điên, nghiến răng nói:

“Cái loại đàn bà chanh chua này mà anh cũng muốn cưới?”

Đại Tráng gãi đầu cười khờ khạo:

“Phụ nữ mạnh mẽ thì tốt, không dễ bị bắt nạt!”

Bà nội còn định nói thêm, nhưng mẹ tôi nhàn nhạt lên tiếng:

“Bà Vương, đây là chuyện riêng của tôi, bà đứng đây có vẻ không thích hợp lắm nhỉ?”

Bà nội tức đến tái mặt, miễn cưỡng rời đi.

Họ vào nhà chính bàn chuyện, mẹ bảo tôi ở yên trong phòng.

Tôi dán tai vào cửa, nghe thấy Đại Tráng nói:

“Tôi đưa ba nghìn tệ tiền sính lễ, sau này cô làm chủ trong nhà, tiền tôi kiếm được đều đưa cô giữ. Chúng ta cố gắng sinh thêm một đứa, trai hay gái đều được.”

“Nhưng tôi có một điều kiện: Cô không thể mang theo con gái. Tôi đã có một cặp con riêng, nếu sau này sinh thêm nữa, tôi không thể nuôi nổi nhiều như vậy.”

7

Bà mối và mợ tôi nghe vậy, lập tức khuyên mẹ:

“Đại Tráng là người tốt, ở mười dặm quanh đây cũng hiếm ai điều kiện được như anh ấy!”

“Cứ để Bé Bối lại cho nhà họ Vương, nó là con cháu nhà họ, chẳng lẽ họ không nuôi?”

“Em còn trẻ, cũng nên nghĩ cho tương lai của mình chứ!”

Tôi trốn sau cửa nghe lén, vô tình va vào ghế, tạo ra tiếng cạch rất rõ.

Mẹ đẩy cửa ra, cúi đầu nhìn tôi.

Tay tôi run lên.

Tôi hy vọng bà có thể lấy được người tốt, để hai mẹ con có thể sống khá hơn, ngày nào cũng được ăn thịt.

Nhưng tôi cũng sợ bà sẽ bỏ tôi lại cho bà nội độc ác và ông bố vô trách nhiệm kia.

Sau một lúc lâu, mẹ tôi khẽ nói:

“Tôi muốn đưa Bé Bối đi học đại học. Nếu không ai chấp nhận điều kiện này, tôi sẽ không tái giá.”

Làng quê chẳng giấu nổi chuyện gì.

Cuộc hôn nhân hụt này nhanh chóng trở thành đề tài bàn tán.

“Ngọc Phân điên rồi à? Ai mà chịu nuôi con riêng cho cô ta học đại học chứ?”

“Ngay cả ruột thịt trong nhà còn chẳng ai cho con gái học hết cấp ba, đừng nói là đại học!”

“Đúng thế, nhìn con bé Bé Bối kia cũng đâu có dáng vẻ học giỏi!”

Bà nội tôi cười nhạo:

“Bị bà mối tâng bốc vài câu, tưởng mình còn ‘đắt hàng’ lắm chắc!”

“Đợi thêm vài năm nữa, già rồi không đẻ được, xem có ai thèm rước nó không!”

Buồn cười, nhưng cũng đáng thương.

Ở quê, giá trị lớn nhất của một người phụ nữ là khả năng sinh đẻ.

Sau đó, cũng có vài người đàn ông đến dạm hỏi mẹ tôi.

Nhưng vừa nghe đến chuyện phải nuôi con gái riêng ăn học, ai cũng vội vàng rút lui.

Lâu dần, lời bàn tán trong làng đổi thành:

“Cô ta chắc chắn là chảnh quá nên không ai thèm cưới, giờ lôi con gái ra làm cái cớ.”

Bà nội lại càng đắc ý:

“Nó chẳng qua vẫn còn nhớ thương thằng Thanh, nghĩ trên đời còn có ai hơn con trai tôi chắc?”

8

Mẹ chẳng thèm bận tâm đến những lời đàm tiếu đó.

Bà chỉ tập trung vào dạy tôi học.

Ngoài trời, tiếng pháo Tết vang lên liên hồi.

Tôi không còn tâm trí học hành, liên tục mắc lỗi.

Mẹ tức giận, cầm cành tre quất mạnh lên mu bàn tay tôi.

Những năm đó, tôi sống dưới chế độ “chuyên chế” của mẹ.

Bà bận rộn suốt ngày.

Hết đào măng, trồng khoai, trồng lạc, trồng ngô, hái trà, nuôi heo, nuôi gà, cấy lúa, gặt lúa, lên núi hái thuốc đem bán…

Nhà không có đàn ông, mọi việc lớn nhỏ mẹ đều tự gánh vác.

Dậy sớm hơn gà, ngủ muộn hơn chó.

Lũ trẻ trong làng ghen tị với tôi vì không phải làm nhiều việc đồng áng.

Nhưng tôi lại thèm được như bọn nó – tan học là có thể chạy nhảy chơi đùa khắp nơi.

Còn tôi, bài tập lúc nào cũng chất đống, làm mãi không xong.

Mà nếu làm sai, còn bị ăn đòn.

Trong mắt tôi lúc đó, đại học là một thứ xa vời, mơ hồ, là sứ mệnh mẹ ép tôi phải gánh trên vai.

Tôi không thông minh, nhưng thành tích lúc nào cũng giữ trong top ba của lớp, toàn bộ đều nhờ mẹ ép mà có.

Bà làm đủ mọi cách để ép tôi học.

Những đứa học kém tìm đến rủ tôi chơi, mẹ luôn lạnh mặt, hoặc thẳng thừng nói tôi không có nhà.

Nếu tôi còn chưa làm bài tập mà đã chạy đi chơi, bà sẽ đi từng nhà tìm, túm lấy tôi lôi về.

Mắng xối xả:

“Bé Bối nhà tôi sau này phải đỗ đại học, mấy đứa đừng có làm hư nó!”

Lâu dần, không còn ai chơi với tôi nữa.

“Kim Bối là tương lai đại học sinh, không cùng đẳng cấp với tụi mình.”

“Đi đi, bọn mình không xứng chơi với nó!”