Nhân đó, ta thường lui tới Phật đường, khi thì dâng kinh mới, lúc lại luận bàn Phật lý, miệng
nhắc đến phương trượng chùa Hoàng Phổ đạo hạnh thâm sâu, chỉ điểm một lời liền có thể khai ngộ.
Từ đó, ta thường lấy cớ tìm kiếm kinh văn cho Thái hậu, xin phép xuất cung đến Hoàng Phổ tự.
Những ngày không xuất cung, mặc cho Quỳ Ngô cung gió thổi mây vần, Uyển Nghi cung
vẫn đóng cửa im lìm, người nên đến — tới thời khắc, tự nhiên sẽ đến.
8
Năm ngày trước khi Ngụy Thận Thần được giải cấm, mẫu phi rốt cuộc cũng đến Uyển Nghi cung.
Nàng không trang điểm, vẻ mặt tiều tụy: “Anh Chi, con nhất định phải giúp mẫu phi, giúp đệ đệ con… mẫu phi thật sự không còn cách nào rồi.”
Ta phối hợp cùng nàng diễn kịch: “Mẫu phi, sao lại nói vậy?”
Nàng lệ rưng nơi mắt, nhưng đáy mắt lại lộ vẻ phẫn uất:
“Đệ đệ con còn đang bị giam, mà hoàng thượng lại có ý muốn để Đại hoàng tử kiêm chức
tại Đại Lý Tự. Còn Thái phủ khanh La Vĩ kia cũng kết thân với Đại hoàng tử, trong tay hắn
nắm giữ ngân khố tài chính, nếu thật sự trở thành chỗ dựa cho Đại hoàng tử, thì sau này đệ
đệ con còn tranh gì được nữa…”
Ta vờ mở to mắt, vội lắc đầu ra hiệu:
“Mẫu phi, việc triều chính, xin thận trọng lời nói!”
“Ta đã đến cầu kiến hoàng thượng, nhưng ngài biết là ta vì đệ đệ mà đến, liền không chịu gặp.”
Nghĩ đến ảnh hưởng của Đại hoàng tử trong triều những ngày gần đây, mẫu phi siết chặt tay, không cam lòng mà phẫn nộ.
Ta đưa tay đặt lên mu bàn tay nàng, dịu dàng khuyên giải:
“Mẫu phi chớ vội phiền lo. Đợi khi hoàng đệ được thả, nếu hết lòng vì nước, tận lực vì phụ hoàng giải ưu, thì phụ hoàng tự nhiên sẽ không trách tội nữa.”
Phải rồi, con của hoàng hậu làm được, thì con nàng cũng làm được, nhất định còn phải làm tốt hơn.
Chỉ mấy câu, mẫu phi đã nghĩ thông, hạ quyết tâm:
“Dạo này triều đình đang bàn đến chuyện lũ lụt ở vùng Độ Khánh phía Giang Nam, đợi đệ
con ra, ta sẽ để nó tự xin đi cứu trợ, xem như lấy công chuộc tội.”
“Anh Nhi à, con giúp đệ con nghĩ kế, để nó làm cho ra trò, nhất định phải hơn hẳn Đại hoàng
tử! Con chẳng luôn muốn xuất cung du ngoạn sao? Đợi việc này xong, để con ra ngoài vui chơi một chuyến thật đã.”
Ta nhìn ánh mắt đầy tính toán của mẫu phi, khẽ nhếch môi, thong thả đáp:
“Vâng, con nhất định sẽ giúp hoàng đệ, khiến lần này mọi việc đều hoàn mỹ không tì vết.”
Ta bước vào thư phòng, hạ bút viết liền năm trang giấy kín chữ, đưa cho mẫu phi — đều là kế sách trị thủy trong lịch sử.
Chỉ cần Ngụy Thận Thần làm theo, việc khống chế lũ lụt ở Độ Khánh tất chẳng thành vấn đề.
Bảy ngày sau, Lục hoàng tử Ngụy Thận Thần với chức tuyên phủ sứ liền lên đường gấp rút đến vùng Độ Khánh.
Cùng lúc ấy, ta đang ở trong một gian sương phòng hẻo lánh của chùa Hoàng Phổ ngoài kinh thành, tiếp kiến một vị khách.
Chưởng quỹ của Trân Bảo Các trong kinh thành — Chu Càn.
Chu Càn đem một quyển sổ sách cùng một chiếc hộp nhỏ dâng lên ta.
Ta mỉm cười nhận lấy chiếc hộp, lại đẩy sổ sách trở về.
“Chu chưởng quỹ khách sáo rồi. Chu chưởng quỹ là người thật thà, ta tin được.”
Chu Càn cười lớn một tiếng, cũng không chối từ, thu lại sổ sách rồi ngồi xuống, bắt đầu bàn chính sự.
“Trước đó nữ quân truyền tin dặn ta để ý Giang Nam, lại còn từ nơi khác thu mua lương
thực chở qua. Nhưng gần đây Giang Nam gặp thủy tai, việc buôn bán e là khó khăn.”
“Việc theo dõi Giang Nam liên quan tới việc riêng của ta. Ta biết dạo này sinh ý không tốt, ta
lại vừa có một lô hàng trong tay, Chu chưởng quỹ mang đi nơi khác bán hộ. Lợi tức thì phát
cho các đội thương hành ở Giang Nam, xem như ta thưởng công cho huynh đệ.”
Chu Càn nghe xong liền khoát tay:
“Nữ quân không cần hao tốn. Nữ quân cứu mạng tiểu nữ của ta, chính là ân nhân của cả nhà họ Chu. Việc của nữ quân, cũng là việc của Chu Càn ta.”
Ta nhìn Chu Càn, trong lòng không khỏi cảm khái.
Ai có thể ngờ, kiếp trước vị phú thương bậc nhất nhì kinh thành này lại bị diệt môn chỉ trong một đêm, gia sản to lớn đều rơi vào tay kẻ khác.
Sinh thời dù giàu có đến đâu, cái chết của ông trong kinh thành đầy rẫy quan lại này, cũng chẳng làm nổi lên một gợn sóng nào.
Chu Càn là một trong những đại thương gia của kinh thành, dưới trướng có thương đội đi xa đến tận Nam Dương, Trân Bảo Các trong thành chính là sản nghiệp của ông.
Đáng tiếc, kiếp trước nhà họ Chu tai họa liên miên.
Trước hết, đứa con gái duy nhất của Chu Càn vì bệnh mà chết non, phu nhân ông vì quá đau buồn mà ngã bệnh.
Sau đó, Trân Bảo Các lại gặp biến cố.
Con trai của Tiêu Dao hầu nghiện cờ bạc, lén đem bảo vật trong nhà đến Trân Bảo Các cầm
cố. Chu Càn vì đau xót cái chết của con gái út mà thần trí hoảng loạn, nhất thời nhìn nhầm,
Trân Bảo Các lại đem vật ấy ra đấu giá, khiến cả kinh thành đều biết Tiêu Dao hầu sinh ra một kẻ phá gia chi tử.
Không nỡ trách mắng con mình, Tiêu Dao hầu liền trút giận lên đầu họ Chu.
Con trai hắn lại thèm khát gia sản nhà họ Chu, bèn dứt khoát ra tay tàn độc, hạ sát toàn bộ Chu phủ.
Cả mấy chục mạng người, kể cả gia nô, không một ai sống sót.
Kiếp này, ta đã sớm cứu được con gái của Chu Càn, giúp ông tránh thoát chuỗi họa về sau.
9
Ngụy Thận Thần đi hơn hai tháng, ta cũng ở lại chùa Hoàng Phổ đúng hai tháng.
Xem ra hắn làm việc không tệ, suốt thời gian ấy mẫu phi chưa từng đến tìm ta lấy một lần.
Khi kinh thành rơi trận tuyết đầu mùa, đoàn quan viên cứu tế do Ngụy Thận Thần dẫn đầu cũng hồi triều.
Tại buổi chầu sớm, Ngụy Thận Thần tấu trình công vụ, trong lời hắn thì chuyến đi Độ Khánh vô cùng thuận lợi.
Hoàng đế long tâm đại duyệt, gia phong khen thưởng cho toàn bộ quan viên đi cứu trợ.
Quan lại trên triều vốn quen theo gió trở buồm, thấy Ngụy Thận Thần vẫn giữ được thánh sủng, liền lập tức trở mặt thân thiện, thi nhau nịnh bợ lấy lòng.
Ngụy Thận Thần đang lúc đắc chí lâng lâng, ta lại nhận được tin từ Chu Càn, trong lòng chấn động mạnh.
Vùng lân cận Độ Khánh, lục tục có người phát bệnh, nôn mửa tiêu chảy, thậm chí có một thôn trang cả làng đều nhiễm bệnh.
Thương đội của Chu Càn phát hiện không ổn, đã rút khỏi Độ Khánh, chuẩn bị quay về kinh.
Nhưng Chu Càn không cho họ vào thành, mà tìm một trang viện hoang vắng ở ngoại ô để tạm an trí.
Xem ra, Độ Khánh e là đã phát dịch.
Toàn thân ta lạnh buốt, vừa giận vừa hận.
Ngụy Thận Thần, ta thật sự đã đánh giá ngươi quá cao rồi!
Ngụy Thận Thần từ nhỏ được mẫu phi nuông chiều, tự cho mình là trí dũng vô song, không coi ai ra gì, kể cả ta.