20
“Hoàng hậu nương nương long thể bất an, hôm nay không tiện tiếp khách, chư vị nương nương xin mời hồi cung.”
Triệu phi bĩu môi: “Chư vị nương nương gì chứ, mụ mụ già ngươi cũng không nhìn xem ngoài chúng ta ra còn có ai?”
“Đám người kia quen thói giẫm trên đạp dưới, giờ chẳng biết trốn đâu hưởng thanh nhàn rồi.”
Ta xưa nay chán ghét nàng ta lắm lời, nhưng lời này của nàng thì không sai.
Hoàng hậu vừa ngã bệnh, ấn phượng liền treo lơ lửng giữa nàng và quý phi.
Triệu Chi còn ra chiều u sầu ủ dột.
Hoa trong Ngự hoa viên nở rất đẹp, ta hiếm khi có nhã hứng, cùng nàng sóng vai dạo bước.
Triệu Chi tiện tay hái một đóa hoa, đầu ngón tay nhẹ xoay, cánh hoa liền vỡ vụn.
“Ai thèm cái ấn phượng rách rưới ấy.”
“Thực sự không hiểu bệ hạ nghĩ gì, vội vã đăng cơ như vậy, cái ngôi ấy đối với người vốn dĩ là chuyện chắc như đinh đóng cột rồi. Chẳng lẽ còn sợ nó chạy mất chắc?”
“Giờ thì hay rồi, làm cho mọi chuyện rối tung cả lên.”
Bốn phía không một bóng người, ta đứng lại, chỉ vào trán nàng.
“Ngươi có hai cái đầu sao?”
Nàng lườm ta một cái:
“Không, là mười cái, nói linh tinh bị chặt tám cái, vẫn còn dư hai cái đó.”
Một lát sau, như sực nhớ ra điều gì, nàng bèn nói:
“Ngươi đừng có bị hắn nắm được nhược điểm gì đấy, bệ hạ của chúng ta đâu phải hạng người nhẫn nhịn nuốt giận.”
Ta chỉ đành bất đắc dĩ lắc đầu, không để tâm.
Kỳ thực ta cũng từng nghĩ đến lý do vì sao Tạ Hoài lại gấp gáp đăng cơ như thế.
Dân gian vẫn đồn rằng Thái tử làm việc tàn nhẫn, không giữ tình nghĩa, chẳng được lòng dân bằng Thái tôn ôn hòa, càng được Thánh thượng sủng ái.
Thậm chí còn có lời nói Thánh thượng định trực tiếp truyền ngôi cho Thái tôn.
Trước kia ta nghe những lời này chỉ thấy buồn cười, giờ thì lại cẩn thận suy ngẫm từng câu.
Ngẫm đi ngẫm lại, thật ra cũng chẳng phải không có lý.
21
Tạ Hoài rất ít lui tới hậu cung, mà vài lần ít ỏi đó đều nghỉ lại ở chỗ ta.
Giữa đêm khuya, mỗi người một tâm sự.
Chúng ta mặc y phục nằm trên giường, chẳng ai ngủ được.
Bỗng dưng, hắn trở mình.
“Ngày mốt cùng trẫm đi Lĩnh Nam một chuyến, đăng cơ đến nay, vẫn chưa từng ra ngoài.”
Lúc nói câu ấy, giọng Tạ Hoài rất thấp, mang theo chút mỏi mệt.
Ta sững người một lúc, tự nhiên không từ chối.
Đêm đó, mưa rơi rả rích ngoài cửa sổ, chúng ta chẳng nói thêm lời nào nữa.
22
Lĩnh Nam khí hậu ẩm nóng, núi cao rừng rậm.
Chúng ta lên đường không ngơi nghỉ, càng về nam, lời nói của Tạ Hoài càng ít.
Ngày thứ bảy, đến biên giới Dung Châu nơi Tạ Cảnh Chi đang ở.
Hắn đột nhiên bảo dừng xe ngựa.
Tự mình bước xuống, đứng dưới một gốc đa cổ thụ, ngẩng đầu nhìn về nơi khói bếp xa xa, chẳng biết đang nghĩ gì.
Ta lần theo ánh nhìn của hắn mà trông sang.
Trước cửa có một thiếu niên ngồi, mặc áo vải xanh, đang cúi người bổ củi.
Từng nhát từng nhát, vững vàng dứt khoát.
Lúc này cửa gỗ “két” một tiếng bị đẩy ra, một nữ tử bưng nước đi ra.
Áo vải mộc mạc, mặt không điểm phấn, bên tóc cài một đóa hoa trắng.
Nàng đưa nước cho Tạ Cảnh Chi, rồi dùng khăn chấm mồ hôi trên trán hắn.
Ngón tay lướt qua, hắn ngẩng mắt, hai người đối diện nhìn nhau mỉm cười.
Không gian im ắng, Tạ Hoài đột nhiên mở miệng, giọng trầm thấp lạnh nhạt.
“Xem ra, tâm của Cảnh Chi… đã thu lại rồi.”
Hắn nghiêng đầu nhìn ta:
“Còn nàng? Ngần ấy năm qua, lòng nàng… có từng thu lại không?”
Chớp mắt, đầu ta như tê dại, sống lưng túa ra một tầng mồ hôi lạnh.
Ta cười gượng hai tiếng: “Bệ hạ nói gì vậy, thần thiếp nghe không hiểu.”
Hắn cũng cười, nhưng nụ cười chẳng chạm tới đáy mắt:
“Không có gì. Chỉ là trẫm ghét nhất, chính là kẻ bên cạnh có dị tâm.”
“Cảnh Chi dù sao cũng là con trẫm. Chịu khổ nhiều năm như thế, hẳn là nên hiểu rõ trẫm một phen ‘khổ tâm’ này.”
“Truyền ý trẫm, ngày mai lập tức cho Thái tử hồi kinh.”
“À, phải rồi, nữ tử bên cạnh hắn cũng mang về kinh cùng.”
22
Tạ Hoài dắt ta cùng bước xuống.
Chó trông nhà sủa hai tiếng, thiếu niên bổ củi đứng thẳng người, khi ngẩng đầu nhìn chúng ta, thần sắc đầy kinh ngạc.
Khóe môi hắn mấp máy, cuối cùng chỉ phun ra hai chữ:
“Bệ hạ.”
Giọng hắn khàn đặc, quả thật bị nơi hoang vu hẻo lánh như Lĩnh Nam bào mòn cả khí lực.
Sau đó hắn liếc mắt sang bên, vừa khéo chạm phải ánh mắt ta.
Song hắn chỉ nhàn nhạt lướt qua.
Nữ tử có phần căng thẳng, sau khi nghe lời thì thầm của Tạ Cảnh Chi bên tai, vội vàng quỳ xuống.
Tạ Hoài mỉm cười hiền hòa: “Đứng dậy đi, không cần đa lễ thế.”
“Cảnh Chi, nhiều năm không gặp, chẳng lẽ không mời phụ hoàng vào ngồi một chút?”
Tạ Cảnh Chi nghiêng người nhường đường, cửa gỗ mở ra.
Trong gian bếp là chiếc bàn thấp, ba bát trà thô, một đĩa măng rừng muối.
Tạ Hoài ra hiệu lui hết nội thị, trong phòng chỉ còn lại bốn người chúng ta.
Hắn nhấp một ngụm trà, tán thưởng: “Nước này thanh ngọt, thêm gì vậy?”
“Không thêm gì cả, chỉ là bệ hạ quen uống nước quý, bất chợt nếm nước suối rừng này mới thấy lạ miệng mà thôi.”
Tạ Cảnh Chi đáp.
“Ồ—”
Tạ Hoài kéo dài tiếng, ánh mắt lại dừng trên nữ tử kia.
“Vất vả cho ngươi mấy năm nay chăm sóc Cảnh Chi. Tên ngươi là gì?”
“Dân nữ Thẩm Tố.”
Nàng đáp khẽ, đầu ngón tay nắm chặt khăn đến phát trắng.
Tạ Hoài cười: “Tố, hay lắm, tên hay.”
Hắn quay sang nhìn ta.
“Thanh Di, nàng thấy sao?”
Ngón tay ta run lên, nước trà vương ra một ít, men theo mép bàn rơi xuống vạt váy.
“Cũng… cũng hay.”
Tạ Cảnh Chi rốt cuộc lại nhìn ta, lần này lâu hơn một chút, đáy mắt mang theo vài phần ý vị khó lường.

