3.
Biệt viện ngoại thành rất nhỏ, chỉ có một bà lão câm trông cổng.
Ta cho giải tán toàn bộ nha hoàn, tôi tớ, mỗi ngày tự mình trồng rau, nấu cơm, sống những ngày vô cùng nhàn nhã.
Không còn vinh hoa phú quý của gia tộc, nhưng đổi lại được sự tự do mà ta hằng mong mỏi.
Ta cứ nghĩ, những ngày như vậy sẽ kéo dài mãi.
Cho đến ngày hôm đó, khi ta lên núi sau hái nấm, nhặt được một nam nhân.
Hắn ngã bên suối, toàn thân đẫm máu, mặc y phục vải thô đã không còn nhìn ra được màu sắc ban đầu.
Ta đưa tay dò hơi thở – vẫn còn thở.
Ta do dự.
Cứu, hay là không cứu?
Cứu hắn, cuộc sống yên ổn này của ta có thể sẽ kết thúc. Nhỡ đâu hắn là cường đạo thì chẳng phải ta rước sói vào nhà sao?
Ta đang định quay người bỏ đi, khóe mắt lại vô tình liếc thấy bên hông hắn.
Nơi đó trống trơn, đừng nói ngọc bội hương bao, ngay cả túi tiền cũng không có.
Nhìn thế nào cũng là kẻ nghèo rớt mồng tơi còn hơn cả ta.
Ta lập tức yên tâm.
Một nam nhân không xu dính túi, sẽ không đe dọa đến “dị ứng” của ta.
Ta kéo hắn về biệt viện.
Bà lão câm thấy ta kéo một người đầy máu về, sợ hãi ra hiệu loạn xạ, hỏi ta hắn là ai.
Ta vừa vất vả kéo hắn lên giường, vừa đáp: “Nhặt được ở sau núi, trông có vẻ đáng thương.”
Ta giúp hắn xử lý vết thương, bôi thuốc trị thương – thứ “quý giá” nhất ta có thể lấy ra, tốn của ta mười đồng tiền.
Hắn hôn mê suốt ba ngày.
Ba ngày ấy, ta ngày nào cũng kiểm tra hơi thở của hắn, chỉ sợ hắn chết không một tiếng động ở chỗ ta, lúc đó thì khó mà nói rõ được.
Sáng ngày thứ tư, ta đẩy cửa bước vào, hắn đang mở mắt, đôi mắt trong veo nhìn chằm chằm lên nóc nhà.
“Ngươi tỉnh rồi?” Ta mừng rỡ bước đến gần.
Hắn quay đầu nhìn ta, ánh mắt mơ hồ: “Ngươi là ai?… Ta là ai?”
Mất trí rồi.
Tốt lắm, đỡ phải điều tra thân phận lai lịch.
Ta ho nhẹ một tiếng, bắt đầu bịa chuyện: “Ngươi là hộ vệ nhà ta, lúc lên núi hái thuốc thì ngã, đập đầu bị thương.”
Hắn chớp chớp mắt, hình như tin thật: “Hộ vệ?”
“Đúng.” Ta gật đầu, “Ngươi gọi là A Nguyên, sau này cứ ở lại đây dưỡng thương đi.”
A Nguyên.
Cái tên ta tùy tiện đặt ra.
Hắn khẽ lặp lại một lần, sau đó nở một nụ cười trong trẻo với ta.
“Được.”
4.
Vết thương của A Nguyên hồi phục rất nhanh.
Hắn rất siêng năng, thương còn chưa lành hẳn đã tranh làm việc.
Giặt đồ, nấu cơm, bổ củi, sửa tường rào—việc gì cũng làm đâu ra đấy, cứ như trời sinh ra đã biết làm tất cả.
Món ăn nấu ra còn ngon hơn trăm lần so với chính chủ nhân như ta, quần áo giặt sạch thoang thoảng mùi bồ kết, gấp gọn gàng từng nếp.
Ta triệt để sống những ngày “cơm bưng nước rót”, tiên cảnh trần gian.
Chỉ là đôi lúc, ta lại thấy hắn có chút kỳ lạ.
Ví như dáng bổ củi của hắn—gọn gàng dứt khoát, không giống người thường.
Ví như tuy mất trí nhớ, nhưng lời ăn tiếng nói, hành xử vẫn toát ra một khí chất cao quý trời sinh.
Ta từng hỏi hắn trước đây làm gì.
Hắn nghĩ rất lâu, rồi lắc đầu bối rối: “Không nhớ rõ… chỉ cảm thấy… hình như đã từng cầm qua thứ gì thuận tay hơn rìu.”
Tim ta thoáng run một nhịp.
Chẳng lẽ là… đao?
Ta tự an ủi mình, đừng nghĩ nhiều, biết đâu lại là… cái muôi nấu ăn thì sao?
Tin đồn về ta ở kinh thành, đôi khi cũng bay đến cái biệt viện hẻo lánh này.
Nghe nói Thái tử và Hạ Vãn Nhi sắp đại hôn, khắp thành đều vui mừng.
Nghe nói Hạ Vãn Nhi buông lời, nói người như ta—mệnh mỏng phúc bạc, đáng kiếp nghèo khổ cả đời.
Ta chỉ cười nhạt.
Ngươi không phải ta, sao biết được ta vui vẻ thế nào?
Ngược lại là A Nguyên, mỗi lần nghe người ta bàn tán về ta, đều cau mày, ánh mắt lạnh như băng.
Có một lần, một tên côn đồ trong trấn nghe nói ta dung mạo xinh đẹp lại là kẻ xui xẻo bị gia đình ruồng bỏ, liền buông lời trêu chọc.
Ta còn chưa kịp nổi giận, A Nguyên đã không biểu cảm đứng chắn trước mặt ta.
Hắn chẳng nói gì, chỉ lặng lẽ nhìn đám người kia.
Vậy mà mấy tên côn đồ vốn ngang ngược kia lại bị ánh mắt hắn dọa cho tè ra quần, lăn lê bò toài mà bỏ chạy.
Ta nhìn bóng lưng gầy nhưng thẳng tắp của hắn, tim bỗng lỡ một nhịp.
Tối hôm đó, ta mơ một giấc mộng.
Trong mơ không có vàng bạc châu báu, không có Đông cung lộng lẫy, chỉ có viện nhỏ của chúng ta, và A Nguyên.

