Cho đến hôm ấy, Triệu Phủ tiến cung dâng vật quý, nói là được một tảng đá Thái Hồ tuyệt đẹp, muốn dâng lên cho Bệ hạ.
Lý Diễm hôm đó hiếm hoi nở mặt, lưu hắn lại cùng dùng trưa.
Sau bữa cơm, Triệu Phủ dạo chơi trong cung, loanh quanh lại đi đến cửa điện Thừa Càn.
Nam nhân vốn chẳng được tự tiện vào hậu cung, nhưng Triệu Phủ là tâm phúc số một của Lý Diễm, mấy chuyện vượt phép hơn thế hắn cũng đã làm.
Thái giám trước cửa định mở miệng ngăn, nhưng cuối cùng cũng chỉ dám đứng nhìn hắn sải bước vào điện.
Sai lui cung nhân, Triệu Phủ nhìn ta thật lâu, rốt cuộc khẽ thở dài:
“Mười năm rồi…”
“Cuối cùng cũng có thể gặp lại người.”
Không ngờ hắn có thể nhận ra ta, ta nhìn hắn hồi lâu, không nhịn được hỏi:
“Ngươi làm sao nhận ra được?”
Khóe môi Triệu Phủ thoáng hiện một nét cười:
“Kiếp trước may mắn được hầu hạ nương nương mài mực, ngày qua tháng lại, tự nhiên thuộc lòng nét chữ của người.”
Thì ra… những bản nháp kia, đều bị hắn thu mua.
Lâu ngày không gặp, Triệu Phủ lải nhải kể rất nhiều chuyện, phần lớn là việc xảy ra trong mười năm ta đã quy tiên.
Ta chỉ lặng lẽ lắng nghe, chốc chốc khẽ gật đầu.
Một lúc sau, tiếng nói lan man kia bỗng ngưng bặt.
Ngẩng đầu lên, liền thấy Triệu Phủ đang dùng ánh mắt ai oán như tiểu phụ nhìn ta:
“Thần có bao điều tâm sự muốn bày cùng nương nương.”
“Còn nương nương, chẳng có gì muốn nói với thần sao?”
…Quả là có đấy.
Ta nghĩ ngợi một hồi, cuối cùng cũng nhớ ra một chuyện quan trọng.
“Hôm ta nhập cung, ngươi cho ta uống viên thuốc bí kia, giờ đã có giải dược chưa?”
Vẻ mặt Triệu Phủ khựng lại, hồi lâu sau mới thở dài, có phần bất đắc dĩ nói:
“Nương nương lại đem chuyện ấy ra trêu thần. Chẳng qua là viên nhân sâm hoàn mà thôi, nương nương há lại chẳng biết rõ?”
Thông thường, nếu thật có bỏ thuốc ép người làm việc, át phải đặt thời hạn, để người ấy không dám phản bội.
Hôm ấy Triệu Phủ không hề nói rõ lúc nào thuốc sẽ phát tác, từ đó đến nay cũng chưa từng nhắc lại, lại càng khiến viên “thuốc độc” kia giống như một lời hăm dọa rỗng tuếch.
Hắn vô thanh vô tức nhích lại gần, định mở lời lần nữa, thì chợt nghe nơi góc tây bắc vang lên tiếng chuông xa xăm.
Hoàng hôn buông xuống, Hồng Hộc lâu bắt đầu gióng chuông.
Chuông đánh tám trăm hồi, cổng cung khóa chặt.
Cấm địa hậu cung, nam tử ngoại tộc nếu không có thánh chỉ, đều không được lưu trú qua đêm, dù Triệu Phủ xưa nay ngang ngược, cũng chẳng dám trái quy củ.
Thái giám nhỏ đứng ngoài đã hơi sốt ruột, giương cổ gọi hắn mau lui ra.
Triệu Phủ lưu luyến đứng dậy, đi đến cửa thì như chợt nhớ điều gì, không màng lễ nghi cung cấm, nắm chặt tay ta, thần sắc nghiêm trọng:
“Ta biết nương nương muốn làm gì. Việc này hệ trọng, nếu đã quyết, xin hãy cho ta hay trước một tiếng.”
“Tay người… không nên vấy máu. Để ta thay người ra tay.”
Ta khẽ cười, lắc đầu:
“Không phải vậy đâu.”
“Lưỡi dao năm ấy đâm vào ngực ta, phải do chính tay ta rút ra, rồi lại tự tay đâm trở lại ngực kẻ kia.”
“Kẻ đó tin Phật, ắt phải hiểu—”
“Nhân quả báo ứng, tuần hoàn không sai.”
10.
Triệu Phủ vừa rời đi không bao lâu, điện Vị Ương đã cho người đến truyền chỉ triệu kiến.
Trong cung tôn ti phân minh, dù có chút nghi hoặc, ta vẫn phải theo thái giám tới đó.
Điện Vị Ương vốn là nơi nghỉ ngơi của sủng phi một thuở, cột son ngói ngọc, lan cung quế điện, kẻ ra người vào chẳng dứt.
Nay lại phồn hoa không còn, chỉ còn cảnh điêu tàn thê lương.
Tường vách từng phủ gấm hoa nay đã phai sắc, trong điện chỉ thắp vài ngọn nến leo lét, chiếu ra một góc sáng yếu ớt.
Liễu Sắc Tân ngồi sau án, mặt mày chìm trong bóng tối, giọng nói cũng trầm trầm u u:
“Ngươi tới rồi, ngồi đi.”
Chẳng rõ vì sao, trong lòng ta bỗng thấy hoang mang bất định.
So với ta, người trước mặt đây lại càng giống một linh hồn cô lạc nhân gian.
Thấy ta ngồi xuống, nàng chậm rãi mở lời, lại nói đến chuyện năm xưa trước khi nhập cung.
Nàng kể, nàng lớn lên ở Giang Nam, trước cửa nhà có một cây quế rất to.
Mỗi độ thu sang, hương quế lan xa mười dặm, nàng cùng đám trẻ con trèo lên cành đong đưa, khiến hoa quế rơi rụng đầy đầu.
Rơi xuống cả nước, cả bùn.
Phụ thân thấy nàng nghịch ngợm, liền quát mắng dọa đánh.
Mẫu thân thì tựa cửa, vừa cười vừa nhìn.
“Cây quế này thật đẹp.”
“Chờ con gái mẹ xuất giá, há chẳng dùng để gói bánh đường hoa quế hay sao?”
Theo quy củ nhà giàu đất Giang Nam, con gái xuất giá phải có mười vạn viên bánh đường hoa quế làm sính lễ.
Nàng thèm hương vị ấy, thèm suốt bao năm.
Thế mà đến năm nàng nhập cung, cây quế kia… đã bị chặt mất rồi.
Người làm vườn nói, cây quế kia bị sâu hại quá nặng, cứu cũng không được nữa.
Trước khi nhập cung, phụ thân nàng có mời bà mụ từng ở trong cung về dạy quy củ lễ nghi.
Tiền sính lễ dâng lên hậu hĩnh, bà mụ kia tự nhiên cũng tận tâm chỉ dạy.
Nàng trí nhớ tốt, điều gì cũng khắc cốt ghi tâm.
Quả nhiên sau khi nhập cung, nàng như cá gặp nước, dẹp bỏ không ít người.
Về sau, ngay cả hoàng hậu cũng bị nàng kéo ngã, nàng đường đường trở thành chủ hậu cung.
Lẽ ra nàng nên vui mừng, song thứ theo sau lại là nỗi trống rỗng bao trùm tựa sương mù không lối thoát.
Nàng như người mất phương hướng, chẳng biết sau đó còn phải đi đâu, về đâu.
Cho đến khi đứa bé ra đời, nàng mới như được sống lại.
“Người có biết không, nương nương…”
“Đó là một đứa bé cực kỳ đáng yêu.”
“Được người bế trong lòng cũng chẳng khóc chẳng quấy, chưa biết bò đã biết gọi ‘A nương’.”
“Bệ hạ còn cho người đến Ty Thiên Giám đoán mệnh, nói rằng nó có số trường thọ vạn niên, phú quý vô cực.”
“Vậy mà, lúc nó chết, mới chỉ bốn tuổi…” – giọng nàng đã nghẹn lại – “Khi ấy ta liền biết, lời bọn thuật sĩ kia chẳng thể tin.”
“Sáng hôm ấy, cung nữ tới bẩm, nói tam hoàng tử chẳng biết làm sao lại chui vào lò thiêu xác.”
“Đến khi người phát hiện thì toàn khuôn mặt nó đã cháy đen, chỉ còn tấm khóa trường mệnh bằng vàng đỏ trên cổ là nhận ra được.”
“Ta thậm chí… còn chưa kịp nhìn nó lần cuối…”
Nghe tới đây, lòng ta cũng chẳng khỏi chua xót.
Trong cung đại kỵ bệnh tật, những ai lây nhiễm đều bị kéo đi thiêu hóa sạch sẽ, đổ tro ra ngoài cung, để phòng dịch truyền lan.
Một đứa trẻ nhỏ như vậy… ra đi sao mà bi ai đến thế.
Trầm mặc một lúc lâu, Liễu Sắc Tân lại cất lời:
“Có đôi khi ta nghĩ… có phải năm xưa ta tạo nghiệt quá nhiều, nên Triệu hoàng hậu về báo oán?”
Ta khẽ lắc đầu:
“Triệu hoàng hậu nếu muốn báo oán… tuyệt sẽ không tìm nàng.”
Đó là lời chân thật.

