Năm xưa trong cung, ta và Liễu Sắc Tân tuy là nước lửa, song nàng chưa từng giở trò hãm hại.
Qua lại đấu đá, cũng chỉ là mấy chiêu tranh sủng thường thấy nơi chốn hậu đình.
Chỉ là… Lý Diễm quá mức thiên vị, khiến lòng người lạnh lẽo.
“Vậy sao…” – Liễu Sắc Tân cố cười, môi khẽ run: – “Thế thì… ta yên tâm rồi.”
Thấy thần sắc nàng mỏi mệt, ta bèn đổi đề tài:
“Nếu năm xưa không vào cung, nàng muốn làm gì?”
Liễu Sắc Tân ngẩn ra một chút, rồi mỉm cười:
“Ta muốn làm một người trồng hoa.”
“Ta sẽ chăm sóc thật tốt cây quế ấy, không để nó bị sâu ăn nữa, cũng chẳng để ai chặt mất.”
Ta gật đầu:
“Nếu ta không vào cung, chỉ muốn làm một nữ tiên sinh.”
“Ta chẳng có bản lãnh gì, chỉ có chút bút tích xem cũng không đến nỗi tệ.”
“Làm tiên sinh dạy chữ cho tiểu thư khuê các nhà người, chắc cũng đủ nuôi thân.”
Cứ thế, hai người ngươi một câu ta một lời, trò chuyện chẳng đầu chẳng cuối.
Dần dà, tâm tình Liễu Sắc Tân cũng bình ổn hơn.
Nhìn trời đã về chiều, ta đứng dậy cáo từ.
Nàng tiễn ta ra đến tận cửa điện, ta vừa xoay người rời bước, liền nghe sau lưng vang lên động tĩnh.
Liễu Sắc Tân “phịch” một tiếng quỳ xuống, cúi đầu dập đầu sát đất:
“Kiếp trước, rốt cuộc là ta có lỗi với người.”
Ta khựng bước, quay đầu nhìn nàng, chỉ lắc lắc đầu:
“Kẻ thực sự có lỗi với ta… là kẻ khác.”
11.
Tưởng đâu giữa ta và Liễu Sắc Tân đến đây là hết.
Nào ngờ mấy hôm sau, nàng lại đến bái phỏng.
Lần này, nàng mặc một bộ y phục rực rỡ lạ thường, trán dán hoa điệp, dung nhan tô điểm lộng lẫy như ngày còn đắc sủng.
Từ khi ta trọng sinh đến nay, hiếm khi thấy nàng trang điểm hoa lệ đến thế.
Vừa vào điện, Liễu Sắc Tân đã đi một vòng quanh nội thất, miệng trầm trồ không ngớt.
“Bệ hạ đối với nương nương, quả thật là thâm tình nặng nghĩa.”
Nghe lời nàng có hàm ý khác, ta không khỏi thu lại thần sắc, nghiêm giọng:
“Có gì, cứ việc nói thẳng.”
Liễu Sắc Tân đưa tay ra, trao cho ta một viên đan hoàn đỏ thẫm.
“Đây là trường sinh đan do La Quốc sư luyện riêng cho Bệ hạ.”
“Nhiều năm nay, mỗi ngày Bệ hạ đều dùng một viên, sớm đã thành nghiện, chẳng thể rời nổi những vật nhỏ này nữa.”
Viên đan thơm nức mũi, nhưng ta vừa ngửi đã thấy khó chịu, bất giác lùi một bước.
Liễu Sắc Tân thấy vậy liền bật cười:
“Nương nương cũng cảm thấy có điều chẳng lành phải chăng?”
“Ta đã nhờ người đưa thuốc ra ngoài cung cho đại phu khám xét. Trong đan này chứa rất nhiều hồng đơn và chì trắng, lâu ngày dùng tất khiến thần trí rối loạn, sinh ra ảo giác, ác mộng triền miên.”
Ta trầm ngâm chốc lát, bèn hỏi:
“Thái y trong cung chưa từng khuyên can Bệ hạ sao?”
“Đã có người dâng lời khuyên… rồi bị lôi ra ngoài chém đầu.”
“Từ thuở Thái Tổ khai quốc, đế vương bản triều vốn chuộng tu tiên luyện đạo, La Quốc sư chẳng qua chỉ gia giảm thêm liều lượng mà thôi.”
“Chuyện ấy đâu đáng gì, nếu vì thế mà lỡ dở đại nghiệp trường sinh bất lão của Bệ hạ, mới thực là đại tội.”
Nghe đến đây, ta bỗng hiểu ra điều gì, không khỏi cảm thấy buồn cười.
Tình thâm muộn màng ở đâu ra?
Chẳng qua là áy náy xen lẫn sợ hãi giày vò, khiến hắn phải khoác lên mình tấm áo si tình, hòng che mắt thế gian… và che lấp quỷ dữ trong lòng.
Liễu Sắc Tân ngừng một lát, lại đưa ra một chuyện khác:
“Nương nương có biết, những năm qua Bệ hạ vì truy niệm Triệu hoàng hậu, đã cho dựng biết bao Phật tháp khắp nơi không?”
“Song đó chỉ là chuyện hao tài tốn của, khó lòng gọi là việc thiện.”
Khóe môi nàng thấp thoáng hiện một nụ cười đầy tà ý:
“Nhưng nương nương có biết, trước khi xây tháp, Bệ hạ đều sai người Ty Thiên Giám trấn định địa thế, bày ra pháp trận trấn hồn dưới móng tháp?”
“Ngay cả từng viên gạch, từng bức họa trong tháp, từng chiếc bàn, chiếc ghế… đều mang ý đồ bên trong.”
Thì ra là vậy.
Tượng Phật thân vàng kia, là để nhốt oan hồn chết thảm.
Xá lợi cao tăng, là để trấn giữ người thương tiền kiếp.
Ta lặng lẽ nhìn nàng hồi lâu.
“Ngươi nói cho ta những điều này… là vì cớ gì?”
Nụ cười trên gương mặt Liễu Sắc Tân dần tan đi, giữa lông mày là một tầng điên loạn và khổ sở không sao gọi tên được:
“Ta chỉ cầu xin nương nương một điều…”
“Đừng thứ tha cho hắn.”
“Xin người… đừng buông tha hắn.”
12.
Lại mấy ngày sau, Triệu Phủ sai người đến báo: mọi việc đã thu xếp ổn thỏa.
Liễu Sắc Tân lại cùng Lý Diễm đại cãi một trận, khiến đêm ấy hắn đích thân tìm đến ta, lấy cớ tìm sự an ủi, lại triệu ta thị tẩm.
Trình tự vẫn như mọi lần.
Chỉ khác là lần này, cây trâm trong tay áo ta đã không bị tra xét.
Người gác bên ngoài đã thay một nhóm khác, thấy ta đi vào cũng chẳng liếc mắt.
Trong điện Tử Thần vẫn sáng rực nến lớn trăm ngọn, soi khắp cung thất như ban ngày.
Lý Diễm ngồi bên giường, giơ tay về phía ta:
“Lại đây, đến bên trẫm.”
Ta không nhúc nhích.
“Thần thiếp có đôi lời muốn thưa cùng Bệ hạ, không bằng Bệ hạ bước đến trước mặt thiếp.”
Vẻ không kiên nhẫn lướt qua mặt hắn, song rất nhanh liền thu lại, rồi hắn thực sự bước tới, đứng trước mặt ta.
Ta khẽ mỉm cười, chậm rãi nói:
“Tối qua, thần thiếp nằm mộng thấy cố hoàng hậu Triệu thị.”
Sắc mặt Lý Diễm khẽ đổi.
“Hoàng hậu bảo, Bệ hạ khiến nàng khổ quá.”
“Trên đời sao lại có người bạc tình đến thế, ngay cả con ruột của mình… cũng nỡ xuống tay.”
“Triệu hoàng hậu còn nói, nàng hận Bệ hạ thấu xương, vĩnh viễn… sẽ không bao giờ thứ tha.”
Hơi thở Lý Diễm chợt trở nên nặng nề, hắn lẩm bẩm phản bác như mất hồn:
“Ngươi nói bậy… ngươi nói bậy… đúng rồi, nhất định là ngươi nói bậy!”
Khóe môi ta dần dần nở rộng nụ cười:
“Thần thiếp đâu có nói bậy. Đây là lời cố hoàng hậu Triệu thị đích thân nói với thần thiếp.”
“Nàng còn bảo, chẳng bao lâu nữa… sẽ đến rước Hoàng thượng.”
[chỗ phá format ta lược bỏ]
“Đến khi đó, ba người một nhà các người… sẽ lại đoàn tụ dưới hoàng tuyền.”
“Câm miệng! Câm miệng lại!”
Lý Diễm gầm rú cắt ngang lời ta, hai mắt đỏ rực, như kẻ điên loạn:
“Ở đâu ra thứ điên phụ này! Láo xược vu oan!”
“Trên đời làm gì có quỷ hồn! Tất thảy đều là bịp bợm! Bịp bợm hết!”
“Thần thiếp đâu có lừa Bệ hạ.”
“Cố hoàng hậu đang ở đây… tiễn Bệ hạ xuống đường.”
Trong tay áo, cây trâm vàng vụt ra, đâm thẳng vào ngực Lý Diễm.
Trên áo ngủ trắng như tuyết nhanh chóng lan ra một vệt máu đỏ tươi.
Lý Diễm ngơ ngác cúi nhìn, đờ ra một thoáng rồi giận dữ hét lớn:
“Tiện nhân dám mưu sát vua!”
Ta không đáp lời, chỉ lạnh lùng đâm thêm mấy nhát nữa.

