Ta trò chuyện với hắn về những chuyện ở kinh thành, hắn lặng lẽ lắng nghe, như thể rất vui vì sự có mặt của ta.
Khóe mắt ta liếc thấy đầu ngón tay hắn vô tình chạm lên đuôi tóc ta, hơi khẽ động.
Ngón tay thon dài trắng trẻo kia quấn nhẹ lấy vài sợi tóc, mơ hồ mang theo một tia mập mờ chẳng rõ tên.
Khi ta vừa định lên tiếng, thì Mặc Tùng đã quay về, mang theo thuốc và giấy dán cửa sổ mới mua.
Ý cười trong mắt Nghiêm Tuyết Triệt thoáng nhạt đi vài phần.
9
Ta đứng dậy, đuôi tóc nhẹ lướt qua kẽ tay hắn. Hắn cuộn ngón tay lại, giống như mất mát điều gì.
Sau đó, ta cùng Mặc Tùng dán lại những ô cửa rách nát kia.
Luôn cảm giác có một ánh mắt nóng rực như thiêu như đốt dán chặt sau lưng, nhưng mỗi lần quay lại đều không thấy gì khác lạ.
Cuối cùng, Mặc Tùng bị hắn sai đi sắc thuốc, còn Nghiêm Tuyết Triệt — người khi nãy còn ho không dứt — giờ lại cùng ta dán giấy cửa.
Hắn chăm chú nhìn ta, nhẹ giọng nói: “Không hiểu vì sao, khi cô tới, ta lại cảm thấy căn phòng này chẳng còn lạnh lẽo đến vậy.”
Ta cười đáp: “Có lẽ vì ta là người ấm áp.”
Ta vừa nói vừa mỉm cười tươi sáng với hắn, tay ép chặt lớp giấy vào khung gỗ.
Tuyết rơi ngoài trời, ánh sáng bạc phủ lên mọi vật, làm cả thế gian như sáng lên.
Bỗng một ngón tay ấm nóng đặt nhẹ lên cổ tay ta.
Chủ nhân của bàn tay ấy khẽ run, trong mắt hiện lên một mảng tối mênh mang như tuyết giăng kín trời, từng đợt từng đợt vây lấy ta.
Ta không biểu lộ gì, chỉ nhẹ nhàng rút tay về. “Nghiêm đại ca, ta nên về rồi.”
Hắn thoáng luống cuống: “Để ta đưa cô về.”
Ta nghiêng đầu cười khẽ: “Huynh còn đang bệnh, đừng để bị lạnh thêm. Để Mặc Tùng đưa ta về là được rồi.”
Hắn còn định nói gì, nhưng bị gián đoạn — “Công tử, thuốc sắc xong rồi, mau uống lúc còn nóng!”
Mặc Tùng hí hửng bưng bát thuốc bước vào phòng, bỗng rùng mình một cái, ngơ ngác nhìn quanh.
Sao tự nhiên cảm thấy cổ lạnh thế này… Hình như… công tử vừa mới trừng hắn một cái?
Rõ ràng hôm nay hắn đã hoàn thành nhiệm vụ rất tốt mà!
Chừng mười ngày sau, nghe nói Nghiêm Tuyết Triệt đã khỏi bệnh và trở về Nghiêm phủ.
Vào ngày Lạp Bát, hắn bất ngờ vượt qua kỳ châu thí, một lần đỗ đầu.
Tin tức vừa truyền ra, lập tức gây chấn động trong Sùng Văn thư viện.
Dù trước đó hắn có đỗ viện thí, nhưng kết quả chẳng mấy nổi bật, thuộc hàng cuối bảng.
Khoa cử bấy giờ coi trọng thơ phú, mà trong viện, Nghiêm Quyết là người nổi tiếng viết thơ hạn vận hay nhất.
Ấy vậy mà lần này, Nghiêm Quyết lại trượt, còn Nghiêm Tuyết Triệt lại đỗ đầu.
Có người cười cợt: “Nghiêm phu nhân vì Nghiêm Quyết mà mời hết danh sư trong kinh, kết quả vẫn thua kẻ thứ tử vô danh kia.”
Người bên cạnh vội kéo tay nhắc nhở: “Nói nhỏ thôi, ngươi tưởng Nghiêm Tuyết Triệt còn là người vô danh sao? Nếu hắn vượt được hội thí, thì chính là cá chép vượt long môn!”
Lại có kẻ hừ lạnh, ghen tỵ nói: “Hắn mà cũng đỗ hội thí? Chỉ là gặp vận may thôi!”
Ta nghe mà không nhịn được nữa, lạnh lùng phản bác: “Cùng học một thư viện, sao chưa thấy ngươi gặp vận may như hắn?”
10
Người nọ sắc mặt đại biến, gằn giọng nói: “Ngươi chỉ là con gái của một tiểu quan tép riu, mà cũng dám nói chuyện với ta như vậy? Ngươi nghĩ mình có mấy cái đầu?”
Ta mỉm cười nhàn nhạt, đáp lại không chút khách khí: “Như ngươi thấy đấy, ta chỉ có một đầu
. Hỏi ra câu ngốc nghếch như vậy, xem ra học thuật môn Toán Pháp của huynh vẫn còn kém lắm — e rằng ngay cả kỳ phủ thí cũng chẳng vào nổi.”
Phía sau, Nghiêm Tuyết Triệt yên lặng đứng, ánh mắt sáng lạnh như đao.
Người bạn học bị hắn châm chọc, mặt đen như đáy nồi, toan tiến lên tranh luận, lại bị một người bên cạnh kéo giữ lại.
“Thôi đi, thôi đi, thời thế đã khác xưa rồi, để xem hắn đắc ý được mấy ngày nữa.”
Lần gặp lại ấy, Nghiêm Tuyết Triệt vận một thân áo trắng, dung mạo tuấn dật như trúc ngọc
sinh hương, khác nào ngọc ngà được lau sạch bụi trần, sáng rực khiến người khó rời mắt.
Trên tay ta ôm một bó lớn hoa mai vàng dùng để trang trí Tết, thuận tay bẻ vài nhánh đưa cho hắn.
“Chưa kịp chúc mừng huynh đoạt giải nhất trong kỳ châu thí,” ta cười, “mai vàng nở giữa
tuyết, vừa đúng cảnh, mong Nghiêm đại ca đừng chê lễ vật mọn của ta.”
Hắn nhận lấy, đưa lên mũi khẽ ngửi, giọng trầm nhẹ:
“Ta sao lại chê? Mạng này của ta, cũng nhờ cô mà có được ngày hôm nay.”
Chút thuốc mang đến lúc trời tuyết mà hắn lại nói thành đại ân cứu mạng, thật khiến ta dở khóc dở cười.
“Chuyện khi ấy chỉ là chuyện tiện tay, Nghiêm đại ca không cần để tâm.”
Ta lại hỏi: “Phải rồi, Nghiêm Quyết dạo này vẫn ổn chứ? Hẳn lần này hắn thất bại nặng nề, huynh giúp khuyên giải hắn nhiều chút mới tốt.”
Nghe vậy, nụ cười trong mắt Nghiêm Tuyết Triệt dần tan biến, ánh nhìn bỗng trở nên u tối.
Không nói không rằng, hắn bất ngờ vươn tay ôm trọn bó mai trong lòng ta, rồi còn giành luôn cả túi hoa sinh, kẹo ngào mà ta đang cầm.
“Gió ngoài phố lạnh, ta đưa cô về trước.”
Chẳng bao lâu sau đã đến trước cổng nhà, ta còn muốn hỏi thêm: “Nghiêm Quyết gần đây…”
Nhưng chưa kịp nói hết câu, hắn đã ngắt lời:
“Chẳng phải… hai người đã chia tay rồi sao?”
Gương mặt hắn hiện lên vẻ cố chấp cùng một tia âm trầm, hàng mi rũ xuống che đi đôi mắt đầy nguy hiểm.
Ta không quen thấy một Nghiêm Tuyết Triệt như thế.
Thấy ta im lặng, hắn lại ép hỏi: “Không trả lời… tức là vẫn còn dây dưa? Vẫn còn bận lòng vì hắn?”
Ta cố giữ giọng bình thản: “Ta quan tâm đến hắn chỉ là vì tình nghĩa đồng môn, dù sao cũng quen biết nhau mười năm…”
Hắn nhìn ta chằm chằm, thấp giọng cười lạnh: “Vậy cô có còn nhớ… ta với cô cũng quen biết mười năm rồi chăng?”
“Cô đã từng, dù chỉ một lần, dừng ánh mắt lại trên người ta chưa?”
Ánh mắt hắn ngày càng lạnh lẽo, sự ôn nhu ngày xưa dường như tan biến, thay vào đó là một thứ cảm xúc khiến người khó lòng kháng cự.
“Tiết Uyển, có một câu, ta đã giấu trong lòng rất nhiều năm rồi—”
11
Đúng lúc ấy, cửa lớn kẽo kẹt mở ra. Phụ thân ta vừa trông thấy Nghiêm Tuyết Triệt, liền
sửng sốt, ánh mắt nhìn qua lại giữa hai người chúng ta, tựa hồ hiểu lầm điều gì, liền vỗ đùi một cái, hớn hở nói:
“Ôi chao, Nghiêm hiền điệt! Gió nào đưa cháu tới đây vậy? Năm nay cháu nổi tiếng thật rồi,
châu thí đoạt giải đầu, đến cả đại nhân Thượng thư sau khi xem bài văn của cháu cũng tấm
tắc khen ngợi, nói nhất định sẽ đỗ cao trong hội thí sắp tới.”
“Đứng mãi ngoài cửa đón gió làm gì, mau vào trong uống tách trà nóng!”
Phụ thân ta nhiệt tình kéo hắn vào nhà.
Ta vội ngăn lại: “Cha, Nghiêm đại ca còn có việc.”
Cha ta lúc ấy mới có chút chần chừ, còn chưa kịp nói gì thì Nghiêm Tuyết Triệt đã mỉm cười ôn hòa:
“Thưa Tiết bá phụ, hôm nay vãn bối không có việc gì gấp, chỉ là mạo muội tới chơi, mong không quấy nhiễu.”
Phụ thân ta vui vẻ mời hắn vào sảnh, mùi thơm dịu nhẹ của mai vàng phảng phất nơi chóp mũi, khiến ta nhất thời thấy đầu óc quay cuồng.
Trong hoa sảnh, hai người đã ngồi trò chuyện rôm rả.
Chỉ nghe hắn chậm rãi nói: “Nghe danh bá phụ là chung cổ lệnh sử giỏi nhất của Lễ bộ đã lâu, hơn hai mươi năm qua,
bất kể gió mưa, chưa từng xảy ra sai sót. Việc hiệu chỉnh canh giờ giữa trống canh và nhật
quỹ gần như không có chênh lệch. Thần nghe nói triều trước từng có mấy vị lệnh sử vì trời
mưa mà lỡ giờ báo canh, đủ thấy thủ pháp của bá phụ thật phi phàm.”

