Mấy ngày trôi qua, ngón trỏ của ta phồng rộp cả lên.
Còn hắn thì khàn đặc giọng, hớp khí liên tục.
Ta vẫy tay ra hiệu: “Ngừng chiến, ngừng chiến.”
“Nhà ta ở Việt Châu kế bên còn một tiệm, cho ngươi thuê miễn phí, ngươi dời qua đó mở đi?”
“Đánh mãi thế này, cả hai cùng thua, có đáng không?”
Giọng Tạ Nhược Nho khàn đến mức sắp không ra tiếng: “Không… trừ khi ngươi trả Tiểu Bạch cho ta.”
Ta nổi điên: “Nhà ngươi chỉ có một mình, cái tên tiểu đồng hầu hạ ngươi cả ngày cũng hay mất tích.”
“Ngươi không ở nhà, Phú Quý đói mấy ngày liền.”
“Ta không ở nhà thì cha mẹ ta còn cho nó ăn.”
“Tiểu Phú Quý không thể có người cha vô trách nhiệm như ngươi.”
Không biết câu nào đâm trúng tâm can hắn.
Hắn cúi đầu, dường như đang suy nghĩ.
Ánh hoàng hôn chiếu qua mái hiên, soi lên khuôn mặt hắn, in bóng hàng mi dài.
Đẹp như tranh vẽ.
Hắn im lặng như thế, lại có chút khí chất.
Nhưng rồi hắn dùng giọng khàn khàn thốt ra: “Ta sẽ thuê người chăm nó, trả nó lại cho ta đi.”
Thôi vậy, vốn dĩ cũng là chó nhà hắn.
Ta ôm Phú Quý khóc một trận ra trò, nó cảm nhận được nỗi buồn của ta.
Nó liếm nước mắt ta, ngoan ngoãn nằm trong lòng ta.
Ta lại càng khóc lớn hơn.
Ta xoa đầu nó: “Cha ngươi hứa sẽ chăm sóc tốt cho ngươi, nếu hắn quên cho ngươi ăn, ngươi tự chạy về nhé.”
Phú Quý: “Gâu gâu.”
Khi ta ôm Phú Quý đưa cho Tạ Nhược Nho, hắn ôm chặt lấy nó như sợ ta đổi ý.
“Độc phụ, hại cha con ta ly tán bao năm.”
Ta giơ chổi lên: “Tên thư sinh yếu ớt, dám mắng thêm câu nữa thử xem.”
Tạ Nhược Nho giành lại cún con, nên ỷ thế làm càn.
“Không có chút đoan trang nào, thật hiếm thấy.”
“Chua ngoa như thế, coi chừng ế chồng.”
“Áo hôm nay ngươi mặc màu vàng đỏ, chẳng khác nào con gà trống xoè đuôi.”
Ta quật chổi thẳng mặt hắn.
Tạ Nhược Nho tay ôm chó, tay chỉ ta: “Bổn hoàng… công tử đại lượng, không thèm chấp nữ nhân nhà ngươi.”
Đêm đến, nghĩ đến cái miệng từ đầu đến chân không chừa chỗ nào của hắn, ta tức muốn chết.
Sáng hôm sau, ta ra chợ hoa chim mua mấy chục con vẹt.
Vẹt sau khi được ta huấn luyện, mỗi ngày vào giờ Thìn liền lượn lờ trước cửa phủ hắn.
“Tên thư sinh chết tiệt, tên thư sinh yếu đuối dở ẹc, dậy mau.”
“Tạ Nhược Nho, lòng dạ hẹp hòi, đồ bỏ đi.”

Tiểu Đào bưng nước vào phòng, mặt dính hai quầng thâm to đùng.
“Tiểu thư, sao phải tổn hao tám trăm chỉ để hại địch một nghìn?”
Ta ngồi dậy từ trên giường, mắt cũng thâm đen.
Từ bên kia tường vọng sang tiếng chửi yếu ớt của Tạ Nhược Nho: “Sở Tùy Ninh, ngươi bị bệnh à…”
Khóe miệng ta không kìm được mà cong lên điên cuồng, ta nhìn Tiểu Đào, chép miệng đầy thỏa mãn: “Sướng!”
Xuân qua thu đến, sáu năm trôi qua, ta với Tạ Nhược Nho vẫn mỗi ngày “chào hỏi” nhau qua bức tường.
Từ sau khi học được cách huấn luyện vẹt để chửi hắn, ta liền dồn hứng thú sang các loại côn trùng nhỏ khác.
Thật không giấu gì, hiệu quả không tệ chút nào.
Nhưng hôm nay, khi ta thả ra bảy mươi hai con vẹt mà ta huấn luyện…
Ba mươi bảy con muỗi.
Mười chín con ruồi.
Và vài con ong mật, bên kia bức tường lại lặng im chẳng có động tĩnh gì.
Không phải lại bị truy sát rồi đấy chứ?
Vừa bước ra sân, ta liền thấy Phú Quý ngồi chồm hỗm dưới đất.
Thấy ta, nó gâu gâu liên tục.
Nó lớn hơn nhiều so với trước.
Trên người mặc đồ đặt may riêng của Trân Tú Các.
Nhìn là biết giá trị xa xỉ.
Ta ôm lấy Phú Quý, một phong thư từ áo nó rơi ra.
“Bổn công tử phải đi biên cương một chuyến, Phú Quý giao cho ngươi trông nom.”
Bên phải bức thư, là dòng chữ nho nhỏ thanh tú:
“Thế nào, bộ đồ của Phú Quý có phải còn sành điệu hơn cả ngươi không? Học hỏi đi.”
Ta ném mạnh lá thư xuống đất: “Tạ Nhược Nho!”
Trong phong thư còn có hai tờ ngân phiếu, mỗi tờ mười nghìn lượng.
Hai vạn lượng, đủ để nuôi chó đến năm nào tháng nào?
Ta trở về phòng chộp lấy bút, viết ngay một bức thư mắng Tạ Nhược Nho.
Hắn dám cà khịa ta một câu, ta nhất định phải trả lại mười câu.
Chỉ cần huýt sáo một tiếng, bồ câu đưa thư lập tức bay đến, ta nhét thư vào cho nó bay đi.
Hương mà Tạ Nhược Nho dùng đã bị ta thay bằng loại đặc chế.
Chỉ cần chim chóc, côn trùng ngửi được một chút thôi là tìm ra hắn ngay.
Ngoài cửa, A nương gọi ta thu dọn đồ đạc.
Ta hỏi vì sao.
Bà nói: “Biên ải nổ ra chiến sự, tướng địch là Sa Mãn đã chiếm liền hai thành, chỉ cần qua Việt Châu là tới Thanh Châu.”
“Cha ngươi có chút quan hệ trong triều, chúng ta dọn lên kinh thành, ở đó an toàn hơn.”
“Nghe nói ngay cả Thái tử cũng đã thân chinh ra trận rồi.”
Ta sững sờ, nhìn về sân viện bên cạnh.
Tạ Nhược Nho chẳng lẽ ra trận rồi?
Vai không thể gánh, tay không thể xách.
Ra chiến trường rồi liệu có về nổi không?
Thu dọn đồ xong, ta chuẩn bị ôm Phú Quý lên xe ngựa.
Nghĩ sao lại trèo sang sân viện nhà bên, để lại một bức thư.
“Bổn cô nương mang con Tiểu Bạch của ngươi lên kinh thành rồi, nếu ngươi còn muốn nó thì tới đó mà nhận.”
“Mau lên đó nhé, không thì ta sẽ làm hộ tịch cho nó, để con ngươi đổi họ sang họ Sở.”
Trên đường tới kinh thành, ta nghe nói Thái tử ở biên ải đã mất tích.
Đến khi vào kinh, lại nghe rằng thân binh của Thái tử đã tìm được hắn giữa đống xác chết, chỉ nhờ hai con ong mật.
Quả là kỳ lạ.
Ta vẫn viết thư chửi Tạ Nhược Nho mỗi ngày như thường.
Không biết hắn có nhận được không.
Trong thư, ta mắng hắn thậm tệ: “Một tên yếu ớt như gà mà cũng đòi lập công nơi chiến địa à?”
Nghĩ đến mắng nhau bao năm, lại có chút xót ruột, liền hỏi thăm: “Còn sống không đấy? Phú Quý mỗi ngày cứ ngồi trong sân đờ đẫn, chắc là nhớ ngươi rồi.”
Nửa năm trôi qua, ta không nhận được bất cứ lá thư nào hồi âm.
Sáng sớm hôm đó, Phú Quý hưng phấn lạ thường, hướng lên trời mà tru lên ăng ẳng.
Ta ngẩng đầu, một con bồ câu đưa thư từ trên trời sà xuống.
Lần này, thực sự có mang theo một mảnh giấy.
Ta mở ra, nét bút hành thư của Tạ Nhược Nho.
Hắn viết: “Chữ của ngươi xấu đi rồi.”